Dự báo phát thải khí nhà kính từ tàu biển sẽ tăng 50 phần trăm vào năm 2050

10/08/2020

Ddự báo lượng phát thải của hoạt động vận tải biển sẽ tăng lên tới 50% so với năm 2018 vào năm 2050 bất chấp các biện pháp hiệu quả năng lượng được áp dụng, do nhu cầu vận tải dự kiến sẽ tiếp tục tăng.


Ngày 04/8/2020, Tổ chức Hàng hải quốc tế (IMO) đã công bố báo cáo cuối cùng được chờ đợi từ lâu với 575 trang về nghiên cứu khí nhà kính lần thứ tư của tổ chức này. Như vậy, sau 6 năm tính từ khi báo cáo nghiên cứu khí nhà kính lần thứ ba của IMO, kết quả nghiên cứu vừa công bố được xem là phép đo sự thành công của ngành vận tải biển đối với các mục tiêu giảm phát thải khí nhà kính. IMO chưa đưa ra bình luận về nghiên cứu ở giai đoạn này. Ủy ban Bảo vệ môi trường biển (MEPC) của IMO đang được yêu cầu xem xét và phê duyệt nghiên cứu. Cộng đồng vận tải biển thế giới cũng như các chính phủ và các nhóm môi trường tất cả đều đang xem xét các kết quả nghiên cứu với những lo lắng và sẽ đưa ra các phân tích độc lập của họ.

Phát hiện then chốt của báo cáo chỉ ra rằng phát thải khí nhà kính của ngành vận tải biển đã tăng gần 10% trong giai đoạn từ năm 2012 đến năm 2018. Nhóm quốc tế gồm các viện nghiên cứu và trường đại học uy tín đã chuẩn bị báo cáo cũng dự báo lượng phát thải của hoạt động vận tải biển sẽ tăng lên tới 50% so với năm 2018 vào năm 2050 bất chấp các biện pháp hiệu quả năng lượng được áp dụng, do nhu cầu vận tải dự kiến sẽ tiếp tục tăng.

"Báo cáo sẽ cung cấp cho IMO cơ sở thực tế cho các cuộc đàm phán về các biện pháp giải quyết phát thải khí nhà kính do vận tải biển", ông Jasper Faber, giám đốc dự án làm việc tại Tổ chức CE Delft, người đứng đầu Nhóm quốc tế cho biết, "Báo cáo này đã được cải tiến một lần nữa về phương pháp và cách trình bày về các nghiên cứu khí nhà kính trước đây. Chúng tôi tự hào đã tập hợp được một nhóm toàn cầu thực sự quy tụ một số chuyên gia giỏi nhất trong lĩnh vực này. "

Tổng cộng, báo cáo cho thấy lượng phát thải khí nhà kính bao gồm carbon dioxide (CO2), mêtan (CH4) và nitơ oxit (N2O) của toàn bộ ngành vận tải biển (quốc tế, nội địa và đánh bắt cá) tăng 9,6% từ 977 triệu tấn năm 2012 lên 1.076 triệu tấn vào năm 2018. Xem xét cụ thể thành phần CO2 trong phát thải, Nhóm quốc tế nhận thấy tỷ lệ tăng tương tự từ 962 triệu tấn năm 2012 lên 1.056 triệu tấn phát thải CO2 vào năm 2018. Do đó, Nhóm ước tính tỷ lệ phát thải của vận tải biển trong tổng lượng phát thải toàn cầu tăng nhẹ từ 2,76% năm 2012 lên 2,89% năm 2018.

Báo cáo  lần thứ tư cũng giới thiệu một số yếu tố mới, chi tiết hơn và phân tích cụ thể hơn. "Nghiên cứu này thể hiện một bước tiến quan trọng trong việc ước tính lượng phát thải và lần đầu tiên sử dụng phương pháp tiếp cận hoàn toàn phù hợp với IPCC (Ủy ban Liên chính phủ về biến đổi khí hậu) để ước tính lượng phát thải của vận tải biển quốc tế", bà Elena Hauerhof, hiện đang làm việc cho Tổ chức UMAS, đứng đầu bộ phận  kiểm kê khí nhà kính cho biết, "Nghiên cứu này cũng đã nâng cao đáng kể độ chính xác của các ước tính dựa trên AIS (hệ thống nhận dạng tự động) cho tàu bất kỳ, và chứng minh điều này bằng cách thực hiện xác nhận chi tiết về mức tiêu thụ nhiên liệu và các thông số quan trọng khác được báo cáo trong EU MRV (hệ thống giám sát, bảo cáo và thẩm tra phát thải khí nhà kính tàu biển của Liên minh châu Âu) cho hơn 9.000 tàu."


Do sự phát triển về dữ liệu và phương pháp kiểm kê, nghiên cứu này có thể đưa ra lượng khí nhà kính phân biệt giữa phát thải từ vận tải biển nội địa với phát thải từ vận tải biển quốc tế trên cơ sở hành trình cũng như phương pháp phân bổ mới dựa trên hành trình của vận tải biển quốc tế. Mặc dù dữ liệu cho thấy sự gia tăng phát thải CO2 từ vận tải biển quốc tế theo phương pháp phân bổ dựa trên hành trình, nhưng nó cũng cho thấy tỷ lệ tăng trưởng thấp hơn so với tổng lượng phát thải của ngành vận tải biển, và tỷ lệ phát thải CO2 toàn cầu xấp xỉ không đổi trong giai đoạn này. Sử dụng phương pháp phân bổ dựa trên tàu của vận tải biển quốc tế, lượng phát thải CO2 tăng hơn 8% nhưng lại chậm hơn so với toàn bộ ngành vận tải biển.

Một lĩnh vực quan trọng khác mà nghiên cứu xem xét là cường độ carbon trong vận tải biển. Số liệu này được báo cáo là đã cải thiện khoảng 11%, nhưng theo nghiên cứu, sự tăng trưởng trong hoạt động lớn hơn hiệu quả  đạt được. Ông Shuang Zhang thuộc Đại học Hàng hải Đại Liên, trưởng bộ phận nghiên cứu về cường độ carbon nhận xét: "Cường độ carbon của vận tải biển quốc tế là một bổ sung mới cho nghiên cứu khí nhà kính của IMO, đáp ứng chiến lược ban đầu của IMO về khí nhà kính. Các ước tính do báo cáo này cung cấp đã cho thấy rõ ràng chúng ta đang ở đâu trên con đường hướng tới vận tải biển quốc tế carbon thấp". Tuy nhiên, phân tích lưu ý rằng những cải thiện về cường độ carbon của vận tải biển quốc tế không theo lộ trình tuyến tính và hơn một nửa những cải thiện đã đạt được trước năm 2012. Tốc độ giảm cường độ carbon đã chậm lại kể từ năm 2015, báo cáo cho biết.

Lần đầu tiên, nghiên cứu này cũng bao gồm các ước tính cho các yếu tố khác như muội than (black carbon) mà báo cáo chỉ ra là có hậu quả đối với khí hậu và sức khỏe con người. Được biết đến như một chất siêu ô nhiễm, dữ liệu cho thấy lượng phát thải muội than tăng 12% cũng như lượng phát thải mêtan tăng hơn 150%. Báo cáo chỉ ra tổng lượng khí tự nhiên hóa lỏng (LNG) sử dụng trong vận tải biển quốc tế tăng chưa đến một phần ba. Giải thích cho sự khác biệt về tỷ lệ tăng trưởng tiêu thụ nhiên liệu và phát thải mê-tan là do có liên quan đến sự thay đổi kết hợp các máy móc được sử dụng cho toàn bộ đội tàu trong giai đoạn này.

Trong tương lai, báo cáo đưa ra một loạt các kịch bản kinh tế và năng lượng dài hạn, tạo ra dự báo là lượng phát thải sẽ tăng từ khoảng 90%  so với năm 2008 vào năm 2018 lên 90-130% so với năm 2008 vào năm 2050. Các tác giả kỳ vọng lượng phát thải từ vận tải biển trong năm 2020 và Năm 2021 sẽ thấp hơn đáng kể do tác động của Covid-19, nhưng lưu ý tùy thuộc vào quỹ đạo phục hồi, tác động tổng thể của Covid-19 có thể sẽ nhỏ hơn phạm vi không chắc chắn của các kịch bản được đưa ra.

Dự kiến, báo cáo này sẽ được đệ trình lên Ủy ban Bảo vệ môi trường biển (MEPC) của IMO vào mùa thu năm nay để xem xét và phê duyệt.


Tác giả: Ng. Hải